Cái hay của thơ dở – Đồ Bì

Em đứng lặng nhìn chiếc lá rơi
Lá rơi lác đác bốn phương trời
Có phải lá rơi vì trận gió
Hay lá già rồi lá phải rơỉ

Trước nay, những phê bình gia thứ thiệt thường chỉ bình về thơ hay hoặc đôi khi, đưa ra những cái dở trong thơ hay. TôI làm chuyện lội ngược dòng nước, xin bàn qua về những cái hay trong thơ dở, thứ thơ mà các vị làm công tác tòa soạn thường vứt vào sọt rác hoặc lịch sự hơn, ghi thêm một dòng chữ: “Gởi lại tác giả”. Nói tóm lại, tôi xin bàn về những bài thơ chưa hề có trên mặt báo.

Theo sự nghiên cứu rất nghiêm túc của… tôi thì hai nhà thơ dở nhất khu vực châu Á là hai chàng Trịnh Hâm và Bùi Kiệm, thuộc đời Tây Minh. Chuyện này đã được nhà văn Đồ Chiểu nói qua trong Lục Vân Tiên. Thời ấy, đi thi thường phải làm 4 món thi, ca, từ, phú mà Trịnh – Bùi cứ rớt hoài thì thơ của hai “nhà thơ” này dứt khoát phải là thơ dở. Nhưng có một số anh em thân hữu cho rằng có những bài thơ còn dở hơn cả thơ ca của Trịnh – Bùị Các bạn đọc cho tôi nghe một số những bài thơ như vậỵ Đó là những bài thơ xuất hiện trên dưới 40 năm nay, đọc lên nghe cũng sướng sướng. Thôi thì tôi xin bàn về những cái hay của những bài thơ dở đó.

Có một bài gọi là Vịnh Cây Dừa:

Cha mẹ sinh ra gốc biển đông
Bị lụt trôi vào cửa Tam Quan
Ở đời ai đứng cao hơn mỗ
Nếu cao hơn mỗ ấy là tre.

Bài thơ hay ở chỗ toàn bộ kiến thức đều trật lất. Dừa sao lại sinh ra ở biển đông? Bị lụt trôi ra chứ làm sao lại trôi vào? Câu thứ ba thật huênh hoang, khoác lác bởi cây dầu, cây sao, cây…dái ngựa còn cao hơn cả dừa nữa. Dù huênh hoang khoác lác như vậy nhưng câu kết cũng biết thừa nhận rằng tre cao hơn dừa. Còn vần điệu của bài thơ thì trớt he, ngộ nghĩnh hết chỗ nói. Đọc bài thơ, người ta chỉ có thể phì cười, thú vị…

Có một bài gọi là Anh và Em:

Em giai nhân ngồi bên cửa sổ
Anh si tình đứng ở ngòai sân
Bỗng nghe chó sủa rần rần
Sảng hồn anh chạy, rách quần mới may

Thi pháp hòa thanh thơ song thất lục bát nghiêm chỉnh hết chỗ chê. Có người cho cái dở của bài thơ là từ phạm trù hình nhi thượng tình yêu lại chuyển tông sang phạm trù hình nhi hạ rách quần, nghe có vẻ phàm tục quá đáng. Vâng, cái hay của bài thơ là ở chỗ phàm tục: từ du dương anh em đến chó sủa, từ xuất thần mơ mộng của si tình đến sảng hồn chạy toé khói. Mấy ai đã có được tứ thơ biến ảo lâm ly như vậỵ Mà biết đâu, với một nhà thơ nghèo như tác giả, chuyện rách quần còn quan trọng hơn cả chuyện tán tỉnh người yêu.

Có một bài gọi là Lá rơi:

Em đứng lặng nhìn chiếc lá rơi
Lá rơi lác đác bốn phương trời
Có phải lá rơi vì trận gió
Hay lá già rồi lá phải rơỉ

Cả cái hay và cái dở của bài thơ là 2 chữ lá rơi được lập đi lập lại 4 lần khiến nội dung bài thơ vừa nghèo nàn lạc hậu, vừa có vẻ áp dụng tu từ pháp điệp ngữ. Nhưng cái ngộ nhất của bài thơ là tính triết lý: lá rơi vì gió thổi hay tự thân nó già rồi, phải rơị Có thể là vì cả hai lý do đó. Bài thơ dừng lại ở chỗ lơ lửng. Ai nói bài thơ này dở, tôi nguyện chống đến cùng để bảo vệ tiết hạnh của nó.

Có một bài gọi là Em và Rùa:

Nhìn em mặc jupe nhảy Lăm-thôn
Nhảy mãI, lòng tôI cũng đỡ buồn
Lò ấy quả nhiên là lò lửa
Còn rùa chánh hiệu huyện Ô Môn

Bài thơ nguyên là tác phẩm hợp soạn của hai “nhà nho” đi công tác ở Cần Thơ, ngồi ăn cơm chiều trong một quán nhỏ ven sông Hậụ Phía bên kia có một bàn tiệc: một cô gái mặc jupe say sưa nhảy Lăm-thôn. Anh bồi bàn mang ra cho các “nhà nho” món rùa hấp muốị Hai câu trên là của “nhà nho” Đoàn Xuân HaiI; hai câu dưới là của… tôị Ý trên không ăn nhập gì vào ý dưới; một người tả chuyện bên kia; một người nói chuyện bên nàỵ Ddược cái bài thơ mang tính hiện thực cao vòi vọi như trụ viba của bưu điện cần Thơ, ngoại trừ chuyện rùa Ô Môn có vẻ võ đoán.

Có bài gọi là Kế hoạch hóa:

Trai khôn lấy gáI đặt vòng
Gái khôn lấy chồng thắt ống dẫn tinh
Quyết tâm kế hoạch hóa gia đình
Bớt sinh bớt đẻ hai đứa mình mới… vui chơi!

Hai câu trên có vẻ hơi tàn bạo nhưng rất chắc ăn, ai cũng có thể hiểu được. Hai câu dưới là một sự chuyển thể những khẩu hiệu của chương trình kế hoạch hóa gia đình. Cái vỏ của bài thơ là ca dao, mang tính cổ điển nhưng cái ruột của bài thơ cực kỳ hiện đạị

Cho hay, trong cái gọi là thơ hay trên đời cũng hàm chứa những điều rất dở; trong cái gọi là thơ dở trên đời cũng hàm chứa những điều rất haỵ It’ ra, thơ gọi là dở cũng đem lại cho cuộc đời nụ cười thư giãn. Mà chức năng giải trí của văn chương đâu phải là nhỏ. Ddồ Bì tôi có tham vọng sưu tầm, bình chú thành một tác phẩm bao gồm những bài thơ được xem là dở trên đời, để lại cho… đời sau, gọi là góp thêm một cái nhìn về văn chương cuối thiên niên kỷ. Chuyện đó có làm được hay không cũng chưa biết!

Đồ Bì

Nếu thiếu đàn ông !!!

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Khác chi vườn cảnh thiếu lao công.
Một màu ảm đạm thê lương sẽ,
Biến khắp mọi nơi cảnh vắng không.

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Đêm nằm bà phải quấn chăn bông.
Chăn bông dù ấm không bằng được
Nằm sát kế bên nách của chồng.

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Ra công trang điểm để ai trông?
Đầu bù tóc rối ai chê trách?
Có điểm trang thì cũng uổng công

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Đi làm về trễ chẳng ai mong.
Chẳng ai tựa cửa mà trông ngóng,
Thui thủi nghe sao lạnh cõi lòng.
Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Làm sao tậu được một ông chồng?
Ông chồng không có nhà hoang vắng,
“Cái đó” thôi đành phải bỏ không.

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Một mình gối chiếc với phòng không.
Nửa đêm thức giấc nghe buồn bã,
Ao ước đêm xuân được cạnh chồng.

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Canh khuya ai cỡi chiếc quần hồng.
Tấm thân mềm mại ai sờ mó,
Quấn quít đem nhau đến cõi Bồng.

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Lấy ai phục vụ chẳng đòi công?
Lấy ai sai bảo như đầy tớ?
Chẳng có ai hơn được quý ông.

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Nơi đâu bà trút hết cơn khùng?
Nơi đâu hứng hết cơn hờn giận?
Chịu đựng bao lời nói tứ tung?

Nếu thế giới nầy thiếu các ông,
Quý bà mắn đẻ cũng như không.
Loài người tuyệt chủng đâu còn nữa,
Nói phét cho vui có phải không?

Vmode – theo khakha

Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh – Kỳ 1: Câu chuyện tình buồn 70 năm trước

T.T.Kh là một câu chuyện chưa từng có trong lịch sử văn chương. Đó là câu chuyện về một thi sĩ bí ẩn bỗng nhiên tung lên thi đàn mấy bài thơ tình tuyệt tác làm ngẩn ngơ độc giả rồi lặng lẽ biến mất trong cái bàng hoàng sửng sốt của người yêu thơ.

Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ ngày xảy ra câu chuyện kỳ lạ ấy. Rất nhiều người đã tìm cách vén lên bức màn bí ẩn của câu chuyện nhưng hầu như chưa ai làm thỏa mãn độc giả. Còn người yêu thơ vẫn luôn khát khao được biết sự thật: T.T.Kh là ai và đã vì ai mà sáng tác nên những áng thơ tình đặc sắc đó?

Có một số nhân vật được các nhà sưu tầm đưa ra để giả định rằng đó là T.T.Kh. Nam giới có, phụ nữ có. Trong số những “nghi can” có hai nhà thơ nổi tiếng là Thâm Tâm và Nguyễn Bính. Độc giả tưởng như đã lần ra được tung tích của con người kỳ lạ này nhưng sự thực không phải như vậy. Bởi tất cả những thông tin đưa ra đều do lời người khác kể lại. Còn bản thân những người như Thâm Tâm, Nguyễn Bính chưa bao giờ có phát biểu chính thức nhận mình là T.T.Kh. Vì thế, tuy người kể cũng là người có uy tín trong làng văn làng báo nhưng độc giả vẫn thấy mơ hồ khó tin. Việc tìm kiếm con người thật của T.T.Kh thành ra vẫn rơi vào vòng lẩn quẩn trong bao nhiêu năm qua, khiến câu chuyện thêm nhuốm màu huyền thoại.

Bằng cách phân tích các hình ảnh, biểu tượng, tình tiết văn học, thói quen sử dụng ngôn ngữ trong thơ, trong truyện ngắn…, tác giả Trần Đình Thu đưa ra một cách làm mới: so sánh đối chiếu với những người được cho là T.T.Kh lâu nay để nhận xét xem ai là người phù hợp nhất. Đó là cách làm khá đặc biệt so với những nhà sưu tầm khác trước đây chỉ hoàn toàn dựa vào lời kể của nhân chứng. Vì thế, Thanh Niên xin giới thiệu loạt bài viết trích từ bản thảo cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh chưa xuất bản của tác giả để bạn đọc tham khảo.

Kỳ 1: Câu chuyện tình buồn 70 năm trước

Có thể nhiều bạn đọc đã biết, đã thuộc làu thơ T.T.Kh nhưng vẫn có một số người khác chưa nắm rõ câu chuyện như thế nào. Vì thế, trước khi bước vào phân tích lý giải, chúng tôi xin dẫn lại toàn bộ câu chuyện này một cách có hệ thống. Câu chuyện T.T.Kh bắt đầu vào tháng 7/1937, khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn mang tên Hoa ti gôn của nhà văn Thanh Châu. Nội dung truyện ngắn được tóm tắt như sau:

Có một họa sĩ nghèo mới ra trường. Trong một lần đi tìm cảnh vẽ, chàng đã gặp một thiếu nữ đang hái hoa ti gôn trong vườn. Từ đó, chàng đâm ra mê người đẹp, luôn đạp xe vào làng để ngắm trộm nàng hái hoa.

Năm tháng qua đi, chàng họa sĩ trở nên nổi tiếng. Tranh vẽ của chàng bán được giá rất cao. Họa sĩ trở nên giàu có. Một mùa đông, chàng đi vẽ ở một vùng nọ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi, họa sĩ trông thấy một thiếu phụ. Chàng ngờ ngợ như đã từng gặp người này ở đâu. Cuối cùng nhớ ra, nàng chính là cô gái hái hoa ngày ấy. Trong khi khiêu vũ với nàng, chàng nhắc lại chuyện cũ. Nàng vô cùng ngạc nhiên.

Nàng kể chuyện cuộc đời mình cho chàng nghe. Nàng lấy một người chồng môn đăng hộ đối nhưng cuộc hôn nhân quá tẻ nhạt. Từ đó, nàng hay lui tới chỗ họa sĩ trọ để chơi và để chàng vẽ cho một bức chân dung. Chuyện gì đến đã đến. Một buổi sáng, hai người đi chơi ở một ngôi chùa trên đỉnh núi, chàng đã tỏ nỗi lòng mình. Nàng đáp lại tình yêu của chàng.

Chàng bàn với nàng trốn đi Nhật để chung sống với nhau. Nàng nhận lời. Chàng về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc thì nhận được thư nàng vào giờ chót. Nàng từ chối chuyến đi vì không đủ can đảm vượt qua. Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra. Chàng nhìn những nụ hoa hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu, lặng lẽ hôn lên những cánh hoa và khóc.

Bốn năm sau, một hôm chàng nhìn thấy trên bàn mình một phong thư viền đen. Mở ra xem thì đó là của người chồng nàng báo tin nàng đã chết. Chàng đáp xe lửa đến nơi để đặt lên mộ nàng dây hoa quen thuộc. Từ đó, chàng luôn mua hoa ti gôn về đặt trong phòng mình.

Hoa ti gôn là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng. Truyện ký thác một tâm sự khắc khoải, nhớ nhung hoài niệm. Hình ảnh dây hoa ti gôn được lặp đi lặp lại nhiều lần như muốn khơi gợi một điều gì đó không tiện nói ra. Tác giả của nó – nhà văn Thanh Châu, khi đó là một chàng trai trẻ 25 tuổi, vừa quyết định bước vào nghiệp văn chương. Chàng cũng vừa trải qua một chuyện tình buồn.

Hai tháng sau ngày Thanh Châu đăng truyện ngắn nói trên, một sự kiện đặc biệt xảy ra. Vào tháng 9/1937, tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ của một tác giả ký tên là T.T.Kh. Đó là bài Hai sắc hoa ti gôn, được đăng vào ngày 23/9/1937.

Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết. Giới văn nghệ xôn xao. Gần hai tháng sau, tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa. Bài thơ này có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến. Bài này được đăng trên số báo ngày 20/11/1937. Và một năm sau nữa, tòa soạn nhận thêm bài Bài thơ cuối cùng. Bài này được đăng trên số báo ra ngày 30/10/1938.

Từ đó, tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận thêm bài thơ nào của con người bí ẩn này nữa. Ngược lại, có một bài thơ cũng ký tên T.T.Kh gửi đến một tờ báo khác. Đó là Bài thơ đan áo.

Những bài thơ mang tên T.T.Kh đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt. Nhưng tác giả của nó đã lặng lẽ rời bỏ văn đàn, không bao giờ xuất hiện ở đâu nữa. Không ai biết một chút gì về con người bí ẩn này. Nghi án văn học T.T.Kh từ đó bắt đầu…

Năm 1942, Hoài Thanh – Hoài Chân xuất bản Thi nhân Việt Nam lần đầu tiên, T.T.Kh đã được đưa vào tập sách quan trọng này. Song song đó, nhiều người lại liên tục công bố những thông tin về T.T.Kh. Nào Thâm Tâm, nào Nguyễn Bính, nào em gái nhà thơ Tế Hanh, nào là Trần Thị Khánh… Rất nhiều “ứng viên”.

Câu chuyện về Thâm Tâm có khá nhiều người kể. Chẳng hạn Nguyễn Vỹ, một người có mặt trong Thi nhân Việt Nam đã viết một bài dài trên Tạp chí Phổ Thông vào những năm 1960. Ông Vỹ cho biết, một buổi tối trên đường về nhà, ông gặp Thâm Tâm đang lang thang. Ông mời Thâm Tâm về nhà mình uống rượu. Ngà ngà say, Thâm Tâm cao hứng kể chuyện tình của mình. Thâm Tâm cho biết, người yêu của mình là một nữ sinh tên là Trần Thị Khánh. Nàng đã có lần gợi ý Thâm Tâm đến nhà hỏi cưới nhưng chàng bảo sự nghiệp chưa có gì. Bẵng đi một thời gian, một hôm chàng nhận được phong thư báo tin nàng sắp lấy chồng. Đã bị người yêu bỏ đi lấy chồng, lại còn bị đám bạn chế nhạo, Thâm Tâm đâm ra bị quê. Vì thế đã phải thức một đêm để làm một bài thơ tựa đề là Hai sắc hoa ti gôn, ký tên T.T.Kh. Thâm Tâm làm như vậy với dụng ý để các bạn của mình tin là của Khánh làm, cho khỏi mang tiếng bị tình phụ. Sau đó, Thâm Tâm gửi bài thơ tới tòa soạn. Về phần cô gái đó, sau khi đọc được bài thơ Hai sắc hoa ti gôn, liền viết thư ******** Thâm Tâm kịch liệt. Thâm Tâm bèn lấy những câu chữ trong bức thư này để viết tiếp các bài thơ sau này, vẫn ký là T.T.Kh…

Ngược với Nguyễn Vỹ thì một số tác giả, chẳng hạn như Hoàng Tiến, lại cho rằng chính cô Trần Thị Khánh, cô người yêu của Thâm Tâm đã sáng tác ra những bài thơ ký tên T.T.Kh. Một số tác giả khác còn tiến thêm một bước cụ thể hơn nữa khi cho rằng Trần Thị Khánh chính là em gái họ của nhà thơ Tế Hanh…

Với Nguyễn Bính, không thấy có những câu chuyện cụ thể như trường hợp của Thâm Tâm. Người ta chỉ dựa vào bài thơ Cô gái vườn Thanh đề tên tác giả Nguyễn Bính để cho rằng Nguyễn Bính chính là T.T.Kh.

( Sưu tầm)

Bài thơ cuối cùng (T.T.Kh.) 1938

Anh ạ, tháng ngày xa quá nhỉ…
Một mùa thu cũ một lòng đau.
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu ?

Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi.
Trách ai mang cánh ti-gôn ấy
Mà viết tình em được ích gì ?

Chỉ có ba người được đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em.
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.

Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung.
Giận anh, tôi viết dòng dư lệ
Là chút dư hương, điệu cuối cùng.

Từ nay anh hãy bán thơ anh,
Và để yên tôi với một mình.
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi.
Buồng “nghiêm” thơ thẩn hồn eo hẹp
Ai nhớ người không muốn nhớ lời.

Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết bởi rồi đây,
Nếu không im được thì tôi chết.
Đêm hỡi làm sao tối thế này ?

Năm lại năm qua cứ muốn yên,
Mà phương trời gió chẳng làm quên.
Mà người vỡ lở duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em.

Tôi biết làm sao được hỡi trời!
Giận anh không nỡ, nhớ không thôi.
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh… có một người.

Bài thơ đan áo (T.T.Kh.)

Chị ơi, nếu chị đã yêu,
Đã buồn lỡ hái ít nhiều đau thương.
Đã xa hẳn quãng đời hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng.
Biết chăng chị mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em.
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng.
Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa rụng xuống bên sông bơ thờ.
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi gió đã sang bờ ly tan!

Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim hót trong lồng
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao.
Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khóa chết tim vào lồng “nghiêm”.
Ai đem lễ giáo giam em,
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…
Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai.
Quang cảnh lạ, tháng năm dài,
Đêm đêm nghĩ đến ngày mai giật mình.


Không giống như ba bài thơ còn lại được gửi tới tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy và đều làm bằng thơ bảy chữ, bài thơ Đan áo cho chồng này mặc dù cũng ký tên là T.T.Kh. nhưng lại được gửi đăng trên một tờ báo khác và được viết bằng thể thơ lục bát. Vì vậy việc bài thơ này có đích thực cùng tác giả với ba bài thơ còn lại hay không vẫn còn là một nghi vấn.

Trong Bài thơ cuối cùng (đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy sau thời điểm bài thơ Đan áo được đăng), T.T.Kh. đã viết “Chỉ có ba người được đọc riêng, Bài thơ đan áo của chồng em”. “Ba người” là những ai, và nhân vật “chị” trong bài thơ Đan áo này là ai? Tất cả vẫn chưa có lời giải đáp cuối cùng.

Bài thơ thứ nhất (T.T.Kh.)

Thủa trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sỹ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.

Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm linh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu hoa rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim qua, nắng lướt mành.

Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.

Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dẫu xác xơ
Tóc úa giết tàn đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa
Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ.

Tôi run sợ nốt lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám tưởng ai về.

Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi!
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm đứng tuổi rồi.

HAI SẮC HOA TIGON

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tâm bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng.

(http://diendan.hocmai.vn/archive/index.php/t-17318.html)